Chưa có bài viết nào trong mục này
Tính toán thiết kế và kích thước của lò xo lá- nhíp lá dạng parabol đang là một trong những chủ đề rất được quan tâm. Đây được xem là bước cơ bản những rât quan trọng, đặc biệt là trong các lĩnh vực chế tạo máy, ô tô,… Bài viết hôm này sẽ giúp anh em hiểu rõ hơn quy trình này. Xem ngay nhé!
Các điều kiện tải trọng sau đây có ảnh hưởng đáng kể nhất định đến tính nhất quán của lò xo lá- nhíp lá trục trước:
Bảng 1. Tải trọng và các thông số hình học của lò xo lá
Tải trọng dọc tối đa F (v,max) trong quá trình lái xe trên đường thẳng được xác định bởi:
Lực dọc và tải trọng dọc cực đại F_(v,max) và F_(br,max) khi tác động hết hành trình bàn đạp phanh được tính toán như sau:
Ứng suất do tải trọng dọc lớn nhất và do phanh đều được tính đến trong thiết kế. Các thông số thiết kế và kích thước của lò xo lá- nhíp lá dạng parabol được cho trong bảng 1
Ứng suất và độ chuyển vị lớn nhất trên lò xo lá- nhíp lá dạng parabol ba lớp được tính bằng công thức (4) và (5):
Kết quả ứng suất và chuyển vị lớn nhất đối với tải trọng thiết kế và tải trọng lớn nhất được thể hiện trong Bảng 2.
Bảng 2. Ứng suất và chuyển vị lớn n
Biểu đồ tải trọng lý thuyết và độ dịch chuyển của lò xo lá- nhíp lá dạng parabol được biểu diễn trên hình 4.
Hình 4. Biểu đồ tải trọng và chuyển vị lý thuyết
Trong đó :
σ (max) là ứng suất lớn nhất trên lò xo (MPa),
s là độ võng của lá lò xo (mm),
F là lực (N),
n là số lớp của lò xo,
w là chiều rộng của lò xo (mm),
h (0) là độ dày ở tâm (mm),
h (1) là độ dày ở đầu cố định (mm),
L là chiều dài của lò xo (mm)
E là môđun đàn hồi của vật liệu làm lò xo.
Độ cứng của lá lò xo dạng parabol k được tính ra 39,6 bằng cách sử dụng phương trình (6):
Mô hình hóa thiết kế có sự hỗ trợ của máy tính (CAD) của một lò xo lá- nhíp lá dạng parabol được thực hiện bằng cách sử dụng CATIA V5 R20 trong môi trường Part Design Workbench. Bản chất là sử dụng mô hình CAD đã phát triển làm mẫu vật lý trước khi sản xuất mẫu thử nghiệm. Các vật liệu được gán cho mô hình và các đặc tính của nó lần lượt được trình bày trong Hình 5 và Bảng 3.
FEM là một phương pháp số có thể được sử dụng để tìm giải pháp cho một số vấn đề kỹ thuật liên quan đến phân tích ứng suất. ANSYS là một chương trình máy tính phần tử hữu hạn đa năng. Mô hình 3D của một lò xo lá- nhíp lá dạng parabol được tạo ra bằng cách sử dụng CATIA V5 được nạp vào ANSYS để chia lưới, điều chỉnh các điều kiện biên và quá trình phân tích.
Chia lưới chỉ đơn giản là quá trình cắt một mô hình 3D thành các phần tử nhỏ để chuẩn bị cho phân tích. Mô hình lưới phần tử hữu hạn của lò xo lá- nhíp lá dạng parabol có các tính chất sau. Các đặc tính của mô hình lưới được cho trong Bảng 4. Mô hình lưới của lò xo lá- nhíp lá dạng parabol được thể hiện trong Hình 6.
Hình 5. Mô hình CAD của lò xo lá- nhíp lá dạng parabol
Hình 6. Mô hình chia lưới của lò xo lá- nhíp lá dạng parabol
Bảng 3. Các đặc tính của mô hình
Bảng 4. Các đặc tính của mô hình lưới
Để mô phỏng các điều kiện thực tế của cụm chi tiết cho việc phân tích, các điều kiện biên đã được phân tích như sau:
Phân tích cấu trúc tĩnh của lò xo lá- nhíp lá dạng parabol đã được thiết lập cho tải trọng thiết kế và tải trọng lớn nhất.
Tải trọng tác dụng được xem xét theo 2 giai đoạn đối với tải trọng thiết kế và tải trọng lớn nhất như sau:
Mô hình hư hỏng do mỏi bao gồm cơ chế nứt mỏi và mô hình dự đoán độ bền mỏi. Cơ chế nứt mỏi và các mô hình dự đoán độ bền mỏi được mô tả như sau:
Quá trình mỏi thường liên quan đến sự phát triển của các vết nứt vi mô và sự lan truyền vết nứt vĩ mô. Sự phát triển của vết nứt vi mô bao gồm sự khởi đầu, gia tăng và lan truyền.
Hình 7. Phân tích ứng suất của lò xo lá- nhíp lá theo tải trọng thiết kế
Hình 8. Phân tích biến dạng của lò xo lá- nhíp lá theo tải trọng thiết kế
Hình 9. Phân tích ứng suất của lò xo lá- nhíp lá theo tải trọng lớn nhất
Hình 10. Phân tích biến dạng của lò xo lá- nhíp lá theo tải trọng lớn nhất
Bảng 5. So sánh các phương pháp dựa trên tải trọng thiết kế và tải trọng lớn nhất
Sự bắt đầu của các vết nứt vi mô có thể xảy ra trực tiếp tại các lỗ hổng ban đầu của vật liệu hoặc bắt đầu bằng những thay đổi cấu trúc vi mô do tải trọng gây ra theo chu kỳ dẫn đến hư hỏng vĩnh viễn và sau đó hình thành các vết nứt vi mô trong vật liệu. Các vết nứt nhỏ này gia tăng với số lượng chu kỳ tải trọng ngày càng tăng.
Cuối cùng, đứt gãy do mỏi xảy ra khi một vết nứt nhỏ duy nhất đạt đến kích thước tới hạn và sau đó lan truyền một cách không ổn định. Động lực học phát triển của các vết nứt vi mô chỉ ra rằng kích thước của vết nứt vi mô (a) tăng theo số chu kỳ tải trọng (N) và tải trọng tác dụng (∆); một cách khác, mô hình chung về tốc độ tăng trưởng da/dN như là một hàm về phạm vi ứng suất ∆K được đưa ra bởi Qian và Lei.
K (max) và K (min) lần lượt là hệ số cường độ ứng suất lớn nhất và nhỏ nhất.
Tiêu chuẩn của Luật Paris đối với động thái gia tăng của một vết nứt vĩ mô dưới tải trọng theo chu kỳ là một hàm lũy thừa. Nó mô tả tốc độ phát triển của một vết nứt với kích thước tức thời (a) tại chu kỳ tải trọng thứ N như một hàm lũy thừa của kích thước vết nứt.
Các mô hình phỏng đoán độ bền mỏi được phân loại là mô hình xác định hoặc mô hình xác suất (thống kê). Một số mô hình phỏng đoán độ bền mỏi được tóm tắt như sau.
Các mô hình xác định. Các mô hình xác định giữa ứng suất và độ bền đã được đề xuất theo kinh nghiệm làm tiêu chí để mô tả sự tương quan S-N đối với một mẫu vật có kích thước nhất định. Một số mô hình S-N xác định các phạm vi áp dụng ứng suất và biến dạng (∆, ∆ε) như các thông số phá hỏng do mỏi cơ bản. Một số tiêu chí xác định về phá hỏng do mỏi được trình bày dưới đây:
Tiêu chí quyết định mỏi xác định dựa trên ứng suất đã được bài viết này là giới thiệu về bởi Wöhler vào năm 1870. Theo Wöhler tiêu chí quyết định mệt mỏi được xác định như sau:
Trong đó:
Vào năm 1910, Basquin đã bài viết này là giới thiệu về tiêu chí để đánh giá độ bền mỏi dựa trên ứng suất được xác định như sau:
Coffin và Manson lại đưa ra tiêu chí xác định khác vào năm 1954 như sau:
Trong đó :
Ứng suất chính của 1 mô hình xác suất (thống kê) về độ bền mỏi được tóm lược trong 3 biến (S, N, V) và đang được xem xét. Một số mô hình xác suất P = F (S, N, V) được trình bày như sau:
Trong đó:
N (u), N (th) và c là hàm của S = ∆σ
Vào năm 2016, Sandberg và Olsson giới thiệu về ra mô hình với độ bền mỏi theo xác suất dựa trên thể tích được xác định như sau:
Trong đó :
V* là ứng suất theo thể tích với σ ≥ N (th ).q, V (th) và V (th ) là các thông số của vật liệu.
Castillo et al lại đưa ra nghiên cứu về khác vào năm 2009 như sau:
Một số bài thử nghiệm kỹ thuật khác nhau đã có nhằm mục đích đo lường độ phản hồi của vật liệu đối với ứng suất và biến dạng theo thời gian. Thử nghiệm lâu đời nhất được trình bày bởi Wöhler vào năm 1870. Đồ thị Wöhler hoặc S-N thể hiện trong Hình 11 đã trở thành phương pháp tiêu chuẩn để mô tả đặc tính của cường độ vật liệu khi chịu tải động.
Chú ý rằng độ bền mỏi S giảm tuyến tính trên 2 trục tọa độ như 1 hàm đường thẳng và chạm đến giới hạn khi chu kỳ N bằng 10^6 hoặc 10^7.
Đây là giới hạn bền của vật liệu, vùng mà cho phép ứng suất dưới mức mà vật liệu có thể làm việc theo chu kỳ vô hạn mà không bị hỏng. Giới hạn độ bền gần đúng cho các loại thép được xác định như sau:
Cường độ mỏi hoặc giới hạn độ bền thu được từ các mẫu thử phải được sửa đổi để tính đến sự khác biệt vật lý giữa mẫu thử và bộ phận thực tế đang được thiết kế. Những khác biệt này được xem xét bằng cách sử dụng một tập hợp các yếu tố giảm cường độ được cho dưới đây:
Trong đó :
Trong đó :
d (eq) là đường kính tương đương và được tính theo công thức sau:
A (95) là 95% diện tích ứng suất và được tính toán dựa trên diện tích hình chữ nhật với 2 thông số b và h:
Thông số nhiệt độ C (T) được xác định theo T ≤ 450°C như C (T) = 1. Hệ số độ bền C (R) nằm trong khoảng 1 (ứng với 50% độ bền) và 0.702 (ứng với 99.99% độ bền).
Biểu đồ S-N đã đánh giá được vẽ trên 2 trục tọa độ được biểu diễn trên hình 11. S (m) là sức bền vật liệu ứng với chu kỳ 10³ và được xác định như sau:
Thông số S (e) được biểu thị ở chu kỳ 10^6, và 1 đường thẳng được vẽ giữa S (m) và S (e). Hàm của đường thẳng từ S (m) đến S (e) được Wöhler xác định như sau:
Khi S = S (a) là ứng suất luân phiên S_m được tính toán bằng cách sử dụng ứng suất tối đa và tối thiểu:
Độ bền mỏi được cho bởi số chu kỳ ứng với mọi ứng suất luân phiên S (a) ( hoặc σ (a)) có thể được tính toán theo hàm của Wöhler với 2 điều kiện biên sau :
Bảng 6. Các yếu tố giảm sức bền mỏi
Bảng 7. Sức bền mỏi và tuổi thọ
B2bmart.vn vừa hướng dẫn bạn đọc về quy trình tính toán và thiết kế lo xo lá parabol. Đây là những kiến thức vô cùng hữu ích và giá trị. Hy vọng mọi người có thể hiểu và ứng dụng thật tốt vào công việc của mình.
Chưa có bài viết nào trong mục này